Ngày Chính Trị Văn Hóa Tinh Thần Ở Cơ Sở

Ngày Chính Trị Văn Hóa Tinh Thần Ở Cơ Sở

Theo Vụ Pháp chế (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch), thiết chế văn hóa ở cơ sở đang hàng ngày, hàng giờ đồng hành với đời sống nhân dân và là một phần không thể thiếu của xã hội. Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở là cơ sở vật chất, công cụ trực tiếp và đắc lực của cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị.

VHO - Phát triển du lịch được mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới coi trọng và thúc đẩy mạnh mẽ, một trong những mục đích chính nhằm đến là phục vụ công cuộc phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.

Thủ tướng Narendra Modi quảng bá cho một hòn đảo của Ấn Độ

Trong chuyện này, chính trị là một trong những trợ giúp đắc lực. Nhưng đồng thời, du lịch cũng có thể phục vụ đắc lực chính trị và dùng du lịch có thể làm chính trị rất hiệu quả. Điều này có thể thấy được rất rõ ở việc Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đăng tải trên các mạng xã hội những bức ảnh đi dạo trên bờ biển ở một hòn đảo của Ấn Độ cùng những dòng trạng thái ngợi ca phong cảnh biển đảo của Ấn Độ.

Thật ra, những việc làm như thế vốn rất bình thường trên thế giới. Nơi nào trên thế giới này mà chẳng có những thắng cảnh thiên nhiên riêng và những thế mạnh riêng về du lịch. Trên cương vị người đứng đầu Chính phủ Ấn Độ, ông Modi tán dương bờ biển, bãi cát và biển đảo của Ấn Độ thì cũng là việc mà người này phải làm và nên làm.

Nhưng việc làm của ông Modi lại trở thành chuyện phức tạp và nhạy cảm trong mối quan hệ giữa Ấn Độ và Maldives. Ba vị Bộ trưởng trong Chính phủ Maldives đã có những phát ngôn khiếm nhã về ông Modi khiến phía Ấn Độ phẫn nộ. Đại sứ Maldives ở Ấn Độ đã bị Bộ ngoại giao Ấn Độ triệu lên gặp để nghe phản đối và để bị yêu cầu giải thích. Rồi ba vị Bộ trưởng kia bị Tổng thống Maldives Mohamed Muizzu cho nghỉ việc. Ông Muizzu đắc cử Tổng thống Maldives trong cuộc bầu cử tổng thống mới đây, là người được coi là thân Trung Quốc hơn Ấn Độ. Sau khi lên cầm quyền ở Maldives, ông Muizzu đã chấm dứt một số cơ chế hợp tác song phương lâu nay giữa Maldives và Ấn Độ cũng như đã yêu cầu Ấn Độ triệt thoái hết quân đội ra khỏi Maldives. Vị tổng thống mới này càng thiên lệch hẳn về phía Trung Quốc bao nhiêu, thì quan hệ của đảo quốc với Ấn Độ càng xấu đi bấy nhiêu.

Du lịch vốn là thế mạnh đặc biệt nổi trội của Maldives nhưng hiện tại lại là điểm yếu chết người của Maldives. Trước đại dịch bệnh, du khách Trung Quốc chiếm vị trí số một trong danh sách các nước có nhiều du khách nhất tới Maldives. Bây giờ, du lịch với Trung Quốc chưa hồi phục và nhiều khả năng không thể hồi phục được như trước đại dịch bệnh, bởi tâm lý du khách Trung Quốc đã thay đổi cơ bản khi bắt đầu cho rằng Maldives ở cách quá xa và sản phẩm du lịch ở Maldives không còn mới. Du khách Ấn Độ hiện đã thế chân du khách Trung Quốc ở vị trí ấy. Nếu vì quan hệ chính trị song phương không tốt đẹp mà du khách Ấn Độ không tới Maldives thì Maldives sẽ thua thiệt lớn. Ấn Độ và Maldives lại không cách nhau xa về địa lý, nên Ấn Độ có thể cạnh tranh rất dễ dàng với Maldives về du lịch.

Ông Modi vừa rồi tới thăm và quảng bá du lịch cho một vùng biển đảo của Ấn Độ có điều kiện tự nhiên và phong cảnh thiên nhiên không khác gì Maldives, lại chỉ cách xa Maldives có hơn 130 km. Sau khi ba vị Bộ trưởng trong Chính phủ Maldives có phát ngôn không hay về ông Modi, nhiều hãng du lịch Ấn Độ không tổ chức tour du lịch đi Maldives, một số hãng hàng không của Ấn Độ ngừng bay đến Maldives và trên các mạng xã hội ở Ấn Độ dấy lên làn sóng kêu gọi người dân Ấn Độ tẩy chay du lịch Maldives.

Việc ông Modi quảng bá du lịch biển đảo cho Ấn Độ, vậy là tác động tiêu cực gián tiếp tới ngành du lịch của Maldives mà phía Maldives không thể phê trách hay cản phá được. Vị tổng thống mới của đảo quốc không thân thiện với Ấn Độ, thì đương nhiên không thể đòi hỏi phía Ấn Độ tiếp tục giúp đảo quốc tận lợi từ du lịch như lâu nay. Giải pháp duy nhất cho Maldives là phải lựa chọn đúng nhất giữa “anh em xa là Trung Quốc” và “láng giềng gần là Ấn Độ”. Bài học cốt lõi ở đây là phải dùng chính trị để phát triển du lịch và đồng thời phải dùng du lịch làm chính trị.

Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Hiến pháp năm 2013). Đây là bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm, đường lối đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Hiến pháp 2013 gồm 11 chương, 120 điều là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị và xã hội, đáp ứng tốt hơn yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. So với các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng và toàn diện nhất từ trước tới nay trong việc thực hiện đường lối đối ngoại ở Việt Nam trong thời kỳ mới. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, xuyên suốt và quan trọng nhất trong Hiến pháp 2013 là quy định về bản chất của chế độ ta. Hiến pháp 2013 đã xác định rõ chế độ chính trị của Nhà nước ta hiện nay là “một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm cả đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời” và là “Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân” (Điều 1 và Điều 2). Những quy định này thực chất là tuyên bố với toàn thế giới về bản chất XHCN của Nhà nước ta trong tương quan với các nhà nước khác trong cộng đồng quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng nhất để chúng ta hoạch định chính sách đối ngoại, đồng thời triển khai quan hệ đối ngoại với các nước bạn bè, đối tác trong cộng đồng quốc tế.

Hai là,Hiến pháp 2013 khẳng định phương châm thực hiện đường lối đối ngoại là: “Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”. Hiến pháp 2013 đã tiếp thu và kế thừa các chủ trương, đường lối đối ngoại đúng đắn đã được Đảng và Nhà nước ta thực hiện thắng lợi từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới đến nay. Đó là chính sách hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị và mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, và các bên cùng có lợi. Có thể nói, chính sách này là kết tinh trí tuệ của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn khách quan, không chỉ giúp đất nước ta thoát khỏi thời kỳ bị bao vây, cô lập về chính trị, bị cấm vận về kinh tế, mà còn giúp đất nước ta vươn lên mạnh mẽ, hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới và khu vực.

Phương châm đối ngoại được quy định trong Hiến pháp năm 2013 tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng trong việc thực hiện đường lối đối ngoại trong thời kỳ mới. Đối với quan hệ song phương, cần tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung đường biên giới, đồng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ chốt. Là thành viên ASEAN, Việt Nam đã, đang và sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Trong quan hệ đa phương, Việt Nam coi trọng phương châm là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Việt Nam hiện tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, đặc biệt là Liên hợp quốc. Việt Nam cũng tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu. Cùng với đó, chúng ta xác định quan điểm rõ ràng về biên giới lãnh thổ, đó là thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Hiến pháp năm 2013 cũng thể chế hóa một số điểm rất mới về lĩnh vực đối ngoại được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua (1/2011), đó là quan điểm“chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Đây là sự phát triển mới đặc biệt quan trọng trong chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều này phù hợp với thực tiễn tình hình đất nước, cũng như phù hợp với đặc điểm tình hình và các xu thế lớn của thời đại. Việc Hiến pháp năm 2013 phản ánh chính xác các xu thế phát triển tất yếu khách quan của đất nước cũng như các xu thế phát triển của thời đại thực sự là một cơ sở rất vững chắc để triển khai công tác đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Hiến pháp năm 2013 khẳng định và nhấn mạnh Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. So với Hiến pháp 1992 và các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp 2013 nhấn mạnh hơn tới “cộng đồng quốc tế”. Bất kỳ quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, đều là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng quốc tế và Việt Nam không là ngoại lệ. Đã là thành viên thì đương nhiên quyền lợi luôn đi liền với trách nhiệm. Quy định này là cơ sở quan trọng để chúng ta thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, từ đó có những đóng góp to lớn hơn nữa và thiết thực hơn nữa cho hòa bình, ổn định và sự phát triển của cộng đồng quốc tế nói chung. Việc tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế, khu vực cũng có cơ sở pháp lý vững chắc.

Ba là, Hiến pháp năm 2013 thể chế hóa mục tiêu và nguyên tắc của đường lối đối ngoại: “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Đây là nguyên tắc hiến định vừa xác định mục tiêu, vừa xác định nguyên tắc đường lối đối ngoại của Việt Nam. Lợi ích quốc gia - dân tộc là lợi ích của gần 90 triệu nhân dân Việt Nam trong nước và hơn 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài. Đường lối đối ngoại của Việt Nam đã bước sang một tầm cao mới ở các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa - xã hội và ở mọi cấp độ song phương, khu vực, đa phương và toàn cầu nên đòi hỏi đường lối đối ngoại phải khẳng định mục đích hoạt động nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc và phải góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện đường lối đối ngoại được quy định trong Hiến pháp năm 2013 phù hợp với mục đích đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. Lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới là hai mục tiêu thống nhất với nhau. Lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là cơ sở để xây dựng đường lối đối ngoại của Nhà nước Việt Nam. Mục tiêu “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” thống nhất với các mục tiêu khác nằm trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự ghi nhận và kế thừa phát triển mục tiêu thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ như Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Trung ương 8, khoá IX. Nghị quyết 13 khẳng định “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” và Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh “bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc Hiến pháp 2013 khẳng định rõ về mục tiêu của đường lối đối ngoại là vì lợi ích quốc gia, dân tộc cũng khẳng định đây là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại cần phải được quán triệt trong tổ chức và thực hiện. Nếu lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc không được đảm bảo trong thực tiễn thì cũng đồng nghĩa với việc nguyên tắc trong đường lối đối ngoại Hiến pháp ghi nhận không được thực hiện. Quy định “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” của Hiến pháp năm 2013 về đường lối đối ngoại thể hiện nguyên tắc chung, cơ bản nhất để các chủ thể tham gia hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao Nhân dân đều phải tuân thủ. Có như vậy, mục tiêu đảm bảo dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới mới được đảm bảo trên thực tiễn.

Bốn là, Hiến pháp năm 2013 khẳng định mức độ, nhiệm vụ và phương thức đối ngoại: “chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên”. Quy định này không chỉ xác định nhiệm vụ của đường lối đối ngoại đã được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng mà còn xác định mức độ và phương thức thực hiện đường lối đối ngoại.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, hoạt động hội nhập và hợp tác quốc tế phải được tiến hành theo phương thức tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đồng thời không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Muốn vậy, phương thức thực hiện đường lối đối ngoại của Nhà nước ta được Hiến pháp năm 2013 xác định theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền: “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên”. Đây là điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp 1992 về phương thức đối ngoại, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế bằng việc gia nhập các điều ước quốc tế, ký kết điều ước quốc tế, nội luật hoá và tuân thủ nghiêm minh, chính xác trong thực tiễn.

Năm là, so với bốn bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 đã có bước tiến bộ lớn về vấn đề quyền con người. Chương II của Hiến pháp năm 2013 được dành để quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc làm này thể hiện Việt Nam cam kết và tôn trọng các giá trị cơ bản, phổ quát, nhân văn về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể về quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 16), quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 24), quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin (Điều 25).

Các quy định về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 cho thấy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước tôn trọng con người, vì con người. Các quy định về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 phù hợp với bản chất nhân văn XHCN của chế độ ta và phù hợp với xu thế phát triển của khu vực trong bối cảnh ASEAN đang trong tiến trình xây dựng Cộng đồng hướng tới con người, cũng như các xu hướng phát triển của nhân loại. Đây không chỉ là một cơ sở quan trọng, mà còn là một vũ khí sắc bén trong việc đập tan các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về các vấn đề liên quan tới dân chủ, nhân quyền...

Liên quan tới người Việt Nam ở nước ngoài, Hiến pháp 2013 khẳng định :“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước” (Điều 18). Trong bối cảnh đất nước chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng như hiện nay, người Việt Nam ra nước ngoài học tập, làm ăn, sinh sống và định cư lâu dài ở các nơi trên thế giới ngày càng nhiều, đây chính là cơ sở quan trọng để triển khai một loạt công tác liên quan tới người Việt Nam ở nước ngoài như công tác bảo hộ công dân, công tác lãnh sự...

Sáu là, Hiến pháp 2013 phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác đối ngoại. Sự phân định này giúp các cơ quan chức năng của Nhà nước giảm thiểu chồng chéo, nâng cao hiệu quả hoạt động và công tác phối hợp, trong đó vai trò của Quốc hội trong công tác đối ngoại sẽ được phát huy ở mức cao nhất. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để thống nhất quản lý công tác đối ngoại trong cả nước.

Đối với Quốc hội, Hiến pháp xác định Quốc hội có vị trí và vai trò quan trọng trong công tác đối ngoại. Trước hết, Quốc hội có quyền quyết định các vấn đề liên quan tới chiến tranh và hòa bình... (Điều 70 khoản 13). Đây là những vấn đề hết sức hệ trọng, có liên quan tới vận mệnh đất nước. Quốc hội quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa XHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội (Điều 70, khoản 14).

Trong bối cảnh tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước đang diễn ra sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, Việt Nam ngày càng tham gia sâu vào các tiến trình hợp tác quốc tế, số lượng các hiệp định hợp tác, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên ngày càng nhiều. Quốc hội, với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, tham gia vào giám sát quá trình hoạch định và triển khai công tác đối ngoại sẽ đảm bảo tính khách quan, dân chủ, minh bạch và hiệu quả.

Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã góp phần quan trọng vào thành công chung của ngành đối ngoại. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngoài mục tiêu chung là tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, nâng cao vị thế của Việt Nam, còn có mục tiêu cụ thể là phục vụ công tác lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; nghiên cứu kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan của Quốc hội; tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ của Quốc hội nước ta với Nghị viện các nước và các tổ chức liên nghị viện quốc tế và khu vực. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội cũng góp phần vào việc quảng bá hình ảnh của Việt Nam, giới thiệu đường lối và thành tựu đổi mới của Việt Nam, trong đó có vai trò ngày càng được củng cố và tăng cường của Quốc hội, thể hiện tiến trình dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.

Như vậy, với những quy định mới về đường lối đối ngoại thể hiện trong Hiến pháp năm 2013, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, sự nghiệp đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp năm 2013 về đường lối đối ngoại sẽ tiếp tục thu được những thắng lợi mới. Quốc hội - với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cần thực hiện tốt nhiệm vụ quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, giám sát tối cao việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật liên quan đến đối ngoại, ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết về đối ngoại, hợp tác quốc tế, phê chuẩn các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền. Đây sẽ thực sự là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước ta triển khai hiệu quả chính sách đối ngoại, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới./.