Trình Bày Khái Niệm Đối Tượng Phương Pháp Điều Chỉnh Của Luật Lao Động

Trình Bày Khái Niệm Đối Tượng Phương Pháp Điều Chỉnh Của Luật Lao Động

a. Trong quan hệ lao động, người lao động luôn phụ thuộc vào người sử dụng lao động.

Phương pháp thông qua các hoạt động Công đoàn tác động vào các quan hệ phát sinh trong quá trình lao động

Có thể nói đây là phương pháp điều chỉnh rất đặc thù của Luật lao động. Phương pháp này được sử dụng để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình lao động có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.

Trong quan hệ lao động, các chủ thể tham gia quan hệ này có địa vị kinh tế không bình đẳng, do đó tổ chức Công đoàn - với tư cách là đại diện tập thể người lao động, do người lao động tự nguyện lập nên - có chức năng đại diện tập thể người lao động trong quan hệ với người sử dụng lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động khi các quyền, lợi ích hợp pháp của họ có nguy cơ bị xâm phạm. Điều này khẳng định rằng, sự hiện diện của tổ chức Công đoàn là chính đáng, không thể thiếu được.

Các loại quan hệ lao động:

– Quan hệ làm công ăn lương giữa người lao động và người sử dụng lao động đó là Quan hệ lao động giữa người làm công ăn lương và người sử dụng lao động được xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động. nếu Xét về bản chất đó là sự thỏa thuận giữa các bên theo quy định của pháp luật.và các  quan hệ làm công ăn lương giữa người lao động và người sử dụng lao động là đối tượng điều chỉnh chủ yếu nhất của luật lao động, bờ vì xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhu cầu của các bên tham gia quan hệ lao động.  và các Các quan hệ lao động khác theo quy định của pháp luật quy định

Trên đây là nội dung chúng tôi cung cấp về các vấn đề Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Bộ luật lao động 2019 và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.

Đặc điểm của quan hệ lao động:

Đặc điểm thứ nhất đó là trong quan hệ lao động, người lao động luôn phụ thuộc vào người sử dụng lao động như:

– Sự phụ thuộc vào người sử dụng lao động được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau trong mỗi hình thái kinh tế và xã hội nhưng nó tồn tại trong tất cả các giai đoạn phát triển. sự phụ thuộc của người lao động vào người sử dụng lao động về mặt pháp lí. Người sử dụng lao động có quyền tổ chức, quản lí quá trình lao động của người lao động và người lao động phải tuân thủ. Điều đó xuất phát từ những lí do khác nhau được quy định như sau:

+ Người sử dụng lao động có quyền sở hữu tài sản mà các yếu tô cấu thành nên quan hệ sản xuất luôn chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu;

+ Người sử dụng lao động bỏ tiền ra mua sức lao động của người lao động, muốn sử dụng sức lao động đó một cách hiệu quả nhất buộc người sử dụng lao động phải quản lí cho hợp lí, không để bị lãng phí;

+ Do mục tiêu sinh lợi nhuận, năng suất, hiệu quả, chất lượng trong kinh doanh. Tuy người lao động phụ thuộc vào người sử dụng lao động nhưng pháp luật quy định hai bên được tự do thỏa thuận trên cơ sở hợp đồng lao động.

– Thứ hai, về mặt lợi ích kinh tế, giữa người lao động và người sử dụng lao động vừa có mâu thuẫn, vừa có thống nhất phụ thuộc vào nhau. Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động có quyền quy định cơ chế phân phối trong đơn vị, có quyền quyết định các mức lương đối với từng vị trí công việc, có nghĩa vụ trả lương cho người lao động….Người sử dụng lao động luôn muốn giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí.

Đối với các quan hệ lao động không chỉ liên quan đến việc làm, và giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp. bảo đảm đời sống người lao động, an toàn lao động,… mà còn liên quan đến đầu tư nguồn nhân lực, thu nhập, thu hút đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trên cơ sở những đặc điểm này thì nhà nước phải có định hướng điều chỉnh phù hợp, giả quyết đồng bộ các vấn đề kinh tế xã hội đặt ra trong quá trình sử dụng lao động.

Đối tượng điều chỉnh của Luật lao động

Theo Điều 1 Bộ Luật lao động 2019:

Bộ luật Lao động quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong quan hệ lao động và các quan hệ khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động; quản lý nhà nước về lao động.

Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là mối quan hệ xã hội phát sinh giữa một bên là người lao động làm công ăn lương với một bên là cá nhân hoặc tổ chức sử dụng, thuê mướn có trả công cho người lao động (gọi là quan hệ lao động) và các quan hệ khác có liên quan phát sinh trong quá trình sử dụng lao động( quan hệ liên quan đến quan hệ lao động).

Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật lao động bao gồm hai nhóm quan hệ xã hội: quan hệ lao động và quan hệ liên quan đến quan hệ lao động. Tuy nhiên do đề bài yêu cầu, em xin đi sâu vào phân tích quan hệ lao động – đối tượng điều chỉnh của luật lao động Việt Nam.

Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật lao động 2024

Phương pháp điều chỉnh của Luật lao động 2024

Mua tài khoản Hoatieu Pro để trải nghiệm website Hoatieu.vn

Luật lao động có đối tượng điều chỉnh riêng, phương pháp điều chỉnh riêng, nguyên tắc hoạt động riêng, nguồn luật riêng. Tuy nhiên, Người lao động thì không phải ai cũng hiểu rõ về các vấn đề trên khi tham gia quan hệ lao động. Qua bài viết dưới đây HoaTieu.vn xin nêu rõ chi tiết về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật lao động 2024. Mời các bạn cùng tham khảo.

Phương pháp điều chỉnh của Luật lao động

Các phương pháp điều chỉnh của Luật lao động bao gồm:

Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong trường hợp xác lập quan hệ lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động, và trong việc xác lập thỏa ước lao động tập thể. Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là tự do thương lượng, nên khi tham gia vào quan hệ lao động các bên cùng nhau thỏa thuận các vấn đề liên quan trong quá trình lao động trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đảm bảo cho hai bên cùng có lợi và tạo điều kiện để các bên thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, phương pháp thỏa thuận trong Luật lao động khác với phương pháp thỏa thuận trong Luật dân sự. Trong Luật dân sự, các chủ thể tham gia quan hệ xã hội do Luật dân sự điều chỉnh bình đẳng và độc lập với nhau về địa vị kinh tế. Chính vì vậy mà phương pháp thỏa thuận trong Luật dân sự được sử dụng triệt để, chúng tác động lên các quan hệ dân sự trong suốt quá trình từ khi xác lập đến khi chấm dứt. Ngược lại, trong Luật lao động các chủ thể tham gia vào quan hệ lao động không bình đẳng về địa vị, không độc lập với nhau về tổ chức. Chính vì vậy, để điều hòa mối quan hệ này, Nhà nước bằng pháp luật đã đặt ra những quy định nhằm bảo vệ người lao động, nâng cao vị trí của người lao động để họ bình đẳng với người sử dụng lao động. Bởi vậy, phương pháp thỏa thuận trong Luật lao động tuy là tự do, thương lượng, tự nguyện thỏa thuận, các chủ thể thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong khuôn khổ pháp luật, nhưng lao động luôn có yếu tố quản lý.

Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng trong lĩnh vực tổ chức và quản lý lao động, phương pháp này thường được dùng để xác định nghĩa vụ của người lao động đối với người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động trong phạm vi quyền hạn của mình có quyền đặt ra các quy định như : nội quy, quy chế, những quy định về tổ chức, sắp xếp lao động v.v. . . buộc người lao động phải chấp hành.

Trong Luật lao động. phương pháp mệnh lệnh không phải thực hiện quyền lực Nhà nước như trong Luật hành chính, mà thể hiện quyền uy của chủ sử dụng lao động đối với người lao động.